Matt Mahan

ads header

Breaking News

‘The Rootless People” - Những kẻ mất gốc

Bài viết ‘The Rootless People” đăng trong  tuyển tập NewTo North AMERICA
NHỮNG KẺ MẤT GỐC

. Đỗ-Doãn-Quế

(Đây là bản tự dịch bài ‘The Rootless People” đăng trong Nội San Anh Ngữ The Viets tập 3 của Hội Văn-Hóa Việt tại San José City College, số phát hành Muà Thu năm1997 và đã được Nhà Xuất Bản The Burning Bush, New York, chọn in vào tuyển tập NEW TO NORTH AMERICA và được một số trường Đại-Học Hoa-Kỳ dùng làm tài-liệu giảng-huấn cho các sinh-viên năm thứ nhất và năm thứ hai Ban Nhân-Văn trong một thời gian khá dài sau đó) 

Sau khi rời khỏi được quê-hương (thường thường là nghèo khổ) của mình có một số người nghĩ rằng tốt hơn hết là nên quên cội nguồn gốc gác và cố gắng hết sức để chối bỏ văn-hóa, nhiều khi ngay cả ngôn-ngữ, của họđể có thể hòa nhập với môi-trường mới. Hình như những người này cho rằng làm như vậy họ sẽ tự nhiên trở nên giàu hơn, sang hơn!

Nhưng than ôi! Thật không còn gì sai lầm hơn cách suy-nghĩ và hành-động ấy! Thật vậy, ta hãy lấy nước Mỹ làm thí-dụ. Quốc-gia vĩ-đại và hùng-cường này là kết-quả của một sự pha-trộn của các sắc dân đến từ khắp nơi trên địa-cầu. Ta có thể nói rằng sức mạnh của Mỹ-Quốc luôn luôn bắt nguồn từ sự pha-trộn này. Mỹ châu không có dân bản xứ, những cư-dân đầu tiên của nó, những người mọi da đỏ, đã đến từ Á-Châu 20 ngàn năm trước đây. Theo chân họ là những tín-đồ Thanh-Giáo đến từ Anh-Quốc rồi những người dũng-cảm từ bốn phương của trái đất đã đau-khổ vì bị áp-bức và thiết-tha khao-khát tự-do. Mỗi nhóm người này đem theo nền văn-hóa và văn-minh riêng của họ. Sự hòa-nhập của các phần đóng góp quý-báu này đã cải biến Mỹ-Quốc thành một sức mạnh trí-tuệ vô-song. Không bao giờ nước Mỹ có thể có được nền văn-minh hiện nay nếu các sắc dân di-cư tới đây đã chối bỏ nền văn-hóa riêng của họ. Thực vậy, nếu như họ đã làm vậy thì nước này đã trở thành một quốc-gia của những người mọi da-đỏ (cũ và mới). Cư dân ở đây sẽ không có bánh pizza, hamburger, khoai tây chiên French fries, chao miên, phở, chả giò v.v… và thiên-hạ sẽ vẫn sống trong những túp lều lưu-động làm bằng da trâu, cưỡi ngựa không yên cương và sinh sống bằng cách săn bắn với cung và tên.

Vậy thì khi chối bỏ nền văn-hóa riêng của họ, những người ngoại-quốc di-dân vừa nói ở trên đã hành-động như thể họ đến dự một bữa tiệc Pot Luck mà không đem theo món gì cả. Trong hoàn cảnh đó những thực khách khác sẽ khinh bỉ họ như là những kẻ gian-lận hay là quá nghèo khổ đến cái độ không có nổi một cái gì để đóng góp. Tôi thực sự không có một bằng cớ nào về việc này nhưng tôi có thể đoan chắc rằng rằng người Mỹ không thích thú tý nào đón nhận vào cái xứ-sở huy-hoàng của họ những người tiền-sử, hay những hạng người tương-tự như thế, không bíết gì hơn ngoài việc ăn, ngủ và trai gái.

Thôi hãy gác bỏ một bên cái việc những người ngoại-quốc như vậy được người bản-xứ đánh giá như thế nào, bây giờ chúng ta hãy xét xem những tên khùng đó đã đem lại gì cho chính họ và con cái họ. Chính tôi đã nghe thấy những người này cố gắng hết sức mình dùng cái thứ tiếng Anh bồi của họ để nói với trẻ con vì họ hy-vọng rằng làm như vậy họ sẽ trở thành Mỹ và con cái họ sẽ học tiếng Anh mau hơn . Họ đâu có biết rằng hành-động lố-bịch của họ chỉ có phản-tác-dụng mà thôi vì nó lợi bất cập hại.

Thực vậy, thứ nhất, không bao giờ chỉ một việc nói tiếng Anh, nhất là tiếng Anh bồi, lại có thể làm bạn trở thành người Mỹ, vì ngôn-ngữ không thể thay đổi được hình dáng con người. Tuy rằng y-khoa và kỹ-thuật học đã tiến những bước vượt bực nhưng chúng vẫn chưa đạt tới trình-độ có thể thay đổi nhân-dạng một người Á hay Phi châu v.v… thành ra người Mỹ trắng. (Nếu kỹ-thuật y-khoa tiến được tới mức ấy thì các bác-sỉ chỉnh-hình sẽ kiếm biết bao nhiêu tiền mà kể!)

Thứ hai, cái thứ tiếng Anh bồi của những người này sẽ dậy trẻ con những chữ sai, những cách phát biểu không đúng lối rất có hại cho việc học tiếng Anh tốt. Thêm vào đó, theo một bài đăng trong tạp chí TIME cách đây mấy năm thì các nhà bác-học đã khám-phá ra rằng các trẻ em nói song-ngữ, dùng tiếng mẹ đẻ ở nhà, đã học giỏi hơn các trẻ chỉ biết nói có một thứ tiếng mà thôi. Điều này thật không có gì khó hiểu vì trẻ em song-ngữ phải học hai lần nhiều hơn các trẻ khác để diễn-tả một ý-kiến hay một ý-niệm và bởi làm việc siêng-năng hơn nên bộ óc của các em cũng phát triển nhanh hơn óc các  đứa khác. Việc nói hai hay nhiều thứ tiếng đối với trẻ em cũng như việc luyện tập đối với một lực-sĩ, càng tập luyện nhiều thì càng giỏi. Như vậy khi chối bỏ văn-hóa và không nói ngôn-ngữ của họ thì những người này đã tước bỏ của trẻ con không những một di-sản vô-cùng quý giá mà còn cả một cơ-hội để phát-triển trí-tuệ theo một đường hướng bổ-ích. Phương-cách giáo-dục sai lầm này sẽ tác-hại lên trẻ em suốt cả cuộc đời chúng, các nhà bác học khẳng-định như vậy,

Và, sau cùng nhưng không kém quan-trọng, là khía cạnh tình-cảm của việc mất gốc. Thật vậy, như đã trình-bầy ở trên, việc chối bỏ ngôn-ngữ và văn-hóa của những người di-dân đã không làm họ trở thành người Mỹ, nhưng chắc chắn đã làm cho họ trở nên mất gốc. Khi mà họ (và cả con cái họ) đã không, và không thể, nói được tiếng mẹ đẻ của họ nữa thì gốc rễ của họ đã bị chặt đứt. Thế là một đằng thì chưa trở thành Mỹ, một đằng thì không còn là thành-phần của cái cộng-đồng sắc-tộc gốc của họ, những người này như là cánh bèo nổi trôi lềnh-bềnh trên mặt nước. Bị chối bỏ bởi cả hai xã-hội, những người này luôn luôn tự hỏi họ là ai. Tâm-trạng này gây nên những khủng-hoảng tình-cảm trầm-trọng, gọi là khủng-hoảng căn-cước, nhiều khi có hậu-quả rất thảm-khốc. Nhiều người Nhật-Bản, Đaị-Hàn, Trung-Hoa và các người ngoại-quốc khác đã đau-khổ thê-thảm khi lâm vào hoàn-cảnh này.Trở nên điên-khùng hay ngay cả tự-vẫn không phải là chuyện hiếm xẩy ra trước khi các nạn nhân tìm được lối thoát.

Thí-dụ, một người Nhật sinh-trưởng tại Mỹ thuộc về thế-hệ thứ ba của một gia-đình Nhật-Bản di-cư luôn luôn tự coi mình là người Mỹ cho đến một hôm lũ bạn Mỹ của anh ta nói bốp vào mặt anh rằng chúng nó chẳng bao giờ coi anh là Mỹ cả. Bị súc-phạm nặng-nề, anh ta bỏ về Nhật nhưng khổ thay, anh lại không nói được tiếng Nhật thành ra anh cũng không được dân-chúng địa-phương coi là người của họ. Bị hạ nhục quá nặng-nề và tuyệt vọng, người thanh niên này suýt nữa tự-sát.

May mắn thay, sau một thời gian cực-kỳ đau khổ anh đã nhận ra được sự sai lầm của mình. Chàng hiểu ra rằng nguyên-nhân của sự đau-khổ của mình là chàng đã chối bỏ cái vốn-dĩ là của chính mình để đi tìm cái mà chàng không thể nào có được. Cái vốn-dĩ là của chính chàng là sự thuộc về sắc-tộc Nhật, còn cái mà chàng không thể nào đạt tới được là có hình giáng một người Mỹ. Mặc dù chàng đã bỏ, không nói tiếng Nhật và chỉ nói, mà nói rất thông-thạo, lưu-loát, tiếng Anh thôi, nhưng hình giáng của chàng vẫn không hề thay đổi. Nhìn chàng thì chàng vẫn là một người Nhật với tóc đen, da vàng và mắt dài một mí. Vậy tại sao chàng không chấp nhận một sự thật là chàng là một người Nhật sinh tại Mỹ? Ở vị-thế này chàng có cái lợi-điểm là một nhịp cầu có thể giúp cho hai xứ-sở hiểu nhau và yêu nhau hơn nếu chàng thực sự muốn như thế. Tại sao chàng lại phải xấu hổ vì là người Nhật bởi lẽ tuyệt-đối không có điều gì sai trái trong việc đó cả. Tại sao chàng lại chối bỏ ngôn-ngữ và nền văn-hóa Nhật là những thứ thuộc loại thượng-đẳng trong thế-giới?

Lúc đó chàng khám-phá ra rắng con đường sẽ đưa chàng tới chân-hạnh-phúc là nghiên-cứu học-hỏi ngôn-ngữ và văn-hóa Nhật và đạt tới trình-độ cao nhất để có thể là “cây cầu thông-cảm” nói trên của hai dân-tộc. Sau sự khám phá này chàng ta lập tức bắt tay vào việc học hỏi và chỉ sau một thời gian ngắn chàng đã có thể nói được khá lưu-loát tiếng Nhật. Chàng vẫn còn đang tiếp-tục học và bây giờ là chủ-tịch Hội Nhật-Mỹ của tiểu-bang của chàng. Thay vì chán-nản như trước đây, bây giờ chàng thanh-niên này rất hãnh-diện vì mình và có tinh-thần rất cao. Chàng cảm thấy rất lạc-quan về tương-lai.

Câu chuyện của người thanh-niên Nhật này thật đáng cho ta suy-ngẫm. Những người ngoại-quốc di-cư chớ tưởng rằng họ sẽ được quý-trọng nếu họ cố bắt chước người Mỹ như khỉ bắt chước người. Trái lại, dân-chúng của cái quốc-gia vĩ-đại này chỉ trọng-nể nhũng người tới đây mà có đem theo nền văn-hóa riêng của mình như là một phần đóng góp vào cái sức mạnh trí-tuệ của Mỹ-Quốc.

Người ta kể lại rằng vào thế-kỷ thứ 7, khi bị người Ả-Rập đánh bại, một số người Parsi (là sắc tộc thờ thần lửa) ở Vịnh Ba-Tư thà đành rời bỏ quê-hương còn hơn là chịu sống dưới nanh-vuốt quân thù. Sau một cuộc hải-hành dài, tàu của họ giạt vào bờ biển Ấn-Độ. Nơi đây vị Hoàng-Đế địa-phương cử một vị đại-thần ra bờ biển thay mặt Ngài chào đón họ. Những thuyền nhân này xin được phép tị-nạn chính-trị tại đây nhưng vị đại-thần đại-diện nhà vua đã khoan-thai rót trà vào một cái ly cho đầy tới mí và nói:”Chiéc ly này là hình ảnh của bổn-quốc, nó đã quá đầy rồi, quý vị cũng thấy rằng nó không còn thể nào nhận thêm người nữa cũng như cái ly này không thể nào nhận thêm trà vì nó không còn chỗ chứa”

Nghe vậy, vị thủ-lãnh của những người Parsi chậm rãi nhúm vài hạt đường và bỏ vào trong ly nước rồi nói:”Cũng giống như nhũng hạt đường này, chúng hòa-tan vào trong ly nước của Ngài và làm cho nó ngọt ngào hơn, những người tị-nạn chúng tôi sẽ không chiếm nhiều chỗ trong quý-quốc nhưng chúng tôi sẽ làm cho nó hùng- mạnh hơn, tươi đẹp hơn và hấp-dẫn hơn”. Phép định-cư tị-nạn liền được chấp-nhận cho những thuyền-nhân ấy. Chúng ta hãy tự hỏi việc gì sẽ xẩy ra nếu vị lãnh-tụ các thuyền-nhân chỉ bỏ vào ly nước vài hạt cát vô vị hay ngay cả một nhúm trà giống y như thứ trà đã có sẵn trong ly? Cả hai thứ này đều không đem lại cái gì mới lạ cho ly trà và không hề làm cho nó ngon hơn , vậy thì làm sao chúng lại có thể được chấp nhận?

Thêm vào đó, một cái cây chỉ có thể sống sót và tươi tốt ở một miếng đất mới nếu ta giữ được chùm rễ cái của nó nguyên vẹn, nếu không thì chỉ sau một thời gian ngắn nó héo tàn và chết. Bởi vì rằng nếu không có rễ thì cái cây không thể hút được các chất bổ-dưỡng của mảnh đất mới nên về lâu cái cây mất rễ này sẽ mục rữa và tan nát. Điều đó cũng y như đối với con người. Nếu những người di-dân ngoại-quốc biết gìn-giữ ngôn-ngữ và văn-hóa của họ trong lúc cố gắng hết sức học Anh-ngữ thì họ có thể đóng góp nền văn-hóa của họ vào đời sống trí-tuệ của Mỹ-Quốc làm cho nó hằng hùng mạnh hơn lên mỗi ngày. Đó là điều mà người Mỹ muốn nhất và cũng là con đường bổ-ích nhất cho những người di-dân và gia-đình họ vậy.