Tiếp bước những anh hùng của QL VNCH trên mặt trận mới
Việt Nam Cộng Hòa trên mặt trận mới
Trúc Giang MN
1* Mở bài
Ngày 30 tháng 4 là dịp để chúng ta tưởng niệm và vinh danh các anh hùng, tử sĩ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, đã nêu cao tinh thần chiến đấu chống kẻ thù đến hơi thở cuối cùng. Nhất định không sống dưới chế độ độc tài Cộng Sản.
Những anh hùng vô danh của Quân Lực VNCH được nhắc nhở đến với tinh thần “anh hùng tử, khí hùng nào tử” (Người anh hùng chết nhưng chí khí anh hùng không chết). Các vị tướng lãnh đã tuẫn tiết được nhớ đến như “sinh vi tướng, tử vi thần” (Sống làm tướng, chết thành thần).
Tưởng niệm, vinh danh những anh đã vị quốc vong thân không gì bằng tiếp bước cái ý chí của họ trong cuộc chiến mới. Đó là đấu tranh thiết lập dân chủ, tự do cho đồng bào Việt Nam trong cả nước. Mang những quyền tự do căn bản được ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (The Universal Declaration of Human Rights) được Đại Hội Đồng LHQ thông qua ngày 10-12-1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp.
Đảng Cộng Sản Việt Nam không xứng đáng lãnh đạo đất nước vì đảng tham nhũng, nhất là thái độ hèn với giặc, ác với dân, nhưng tội nặng nhất là truyền thống bán nước của Đảng, từ Hồ Chí Minh-Phạm Văn Đồng đến Nguyễn Văn Linh-Đỗ Mười, đến Lê Khả Phiêu và sau đó là Lê Đức Anh, đã dâng những đảo ở Trường Sa cho Trung Cộng.
Tội lớn nhất là đưa cả dân tộc Việt Nam vào chế độ độc tài, tàn bạo Cộng Sản, đã bị kết án về tội diệt chủng và tội chống loài người, một chế độ đã bị lịch sử ném vào sọt rác của nhân loại.
Tấm gương hy sinh của những anh hùng trong Quân Lực VNCH là ngọn đuốc soi sáng để người VN yêu nước nối bước trong cuộc đấu tranh mới là xây dựng dân chủ, tự do và nhân quyền cho đồng bào trong nước.
Cuộc đấu tranh mới trên hai mặt trận. Với Việt Cộng trong nước và với cái đám tay sai bợ đít nâng bi Việt Cộng, thực hiện tuyên truyền và đánh phá các đoàn thể đấu tranh ở hải ngoại.
2* Thà chết chớ không chịu đầu hàng, không sống chung với Cộng Sản
2.1. Đại Úy Phan Hữu Cương
Đại Úy Phan Hữu Cương, thà chết chớ không chịu sống chung với kẻ thù.
Đêm 1-5-1975, Đại Úy Phan Hữu Cương cùng vợ là Trung Úy Nữ Quân Nhân Trần Mai Hương uống thuốc độc tử tử.
Bà Phan Cẩm Anh, bạn của Trung Úy Mai Hương cho biết, cặp vợ chồng nầy cùng tự tử vào buổi tối ngày 1-5-1975, nhưng sáng hôm sau Trung Úy Mai Hương được cứu sống. Đó là do người cháu phát hiện và đưa đi cấp cứu. Các bác sĩ đã nổ lực dành sự sống mong manh trong cái chết.
Người bạn của Đại Úy Phan Hữu Cương là Đại Úy Nguyễn Văn Nhựt, tùy viên của Phó Tổng Thống Trần Văn Hương thuật lại, sau khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng thì anh Cương đến gặp tôi và nói: “Hôm nay còn được gặp nhau, hãy cùng uống với nhau một vài ly cuối cùng. Ngày mai sẽ không còn có dịp gặp mặt nhau nữa vì tôi không còn ở trên cõi đời nầy”.
Bảy năm sau, bà Trần Mai Hương đã mang ba đứa con trai vượt biên và được định cư ở Hoa Kỳ.
Bà hy sinh cả cuộc đời còn lại, vất vả nuôi con, tất cả đều lớn khôn và thành đạt.
Mấy chục năm sau. Một trong những người con của Đại Úy Cương quyết định trở về quê hương để tìm lại hình ảnh của người cha đã tuẫn tiết khi anh vừa tròn 16 tháng tuổi. Anh phải về vì chỉ có bà nội anh mới biết phần mộ của cha anh ở đâu mà thôi.
Anh trang trọng giữ lấy những hình ảnh của cha mẹ trong ngày cưới.
Về phần mộ, bà nội anh cho biết đã an táng tại một nghĩa trang ở Sài Gòn, nhưng sau đó Việt Cộng san bằng nghĩa trang nên người nhà đem hài cốt đi hỏa thiêu và tro cốt đặt tại một ngôi chùa. Và sau đó đem ra rải trên dòng nước của Sông Đồng Nai.
Người con của Đại Úy Cương là nhà báo Phan Trần Hiếu, ký giả của tờ The Orange County Register, Nam Cali.
Nhiều bài báo nói về người cha của anh đã được quảng bá trong độc giả, nhưng nói chung Đại Úy Phan Hữu Cương là một anh hùng vô danh, đã tự chọn cái chết, quyết không đầu hàng, không sống chung với kẻ thù.
2.2. Trung Tá Nguyễn Văn Long
Tổng hợp những thông tin về cái chết của Trung Tá Cảnh Sát Nguyễn Văn Long.
Lúc 10 giờ 30 sáng ngày 30-4-1975, Dương Văn Minh đọc lịnh đầu hàng. Nhiều quân nhân lột bỏ quân phục, súng ống…Trung Tá Nguyễn Văn Long vẫn giữ nguyên quân phục, huy hiệu cảnh sát và bản tên trước ngực với khẩu súng Colt 45.
Một nhân chứng kể lại. Người ta không biết ông từ đâu đến. Ông xuất hiện ở công trường Lam Sơn, dưới tượng đài Thủy Quân Lục Chiến trước tòa nhà Hạ Viện. Ông ngồi trên ghế đá, trầm ngâm hút thuốc. Hai tay ôm lấy đầu. Bất chợt ông đứng dậy tiến đến gần tượng đài, nằm xuống ngay ngắn, kê họng súng colt vào thái dương, bóp cò.
Máu của Trung Tá Long thấm xuống lòng đất mẹ.
Dân chúng bu lại xem. Phóng viên truyền hình Pháp quay cảnh nầy rất kỹ. Trung Tá Nguyễn Văn Long tuẫn tiết trong quân phục, cấp bậc, huy hiệu cảnh sát và tên Long trên ngực. Không biết ai đã đưa xác ông vào bịnh viện Grall (Đồn Đất) của người Pháp. Có thể do phóng viên truyền hình người Pháp đưa vào.
2). Con nhận xác cha
Theo lời thuật của cô Tâm, con gái thứ ba của Trung Tá Long, thì hai tuần lễ sau, bà Long ở Đà Nẵng nhận được giấy báo của bịnh viện Đồn Đất, gọi vào nhận xác chồng.
Cô Tâm cùng chồng vào Sài Gòn nhận xác cha. Cô cho biết, trong túi áo của cha có thẻ căn cước ghi địa chỉ ở số 37 đường Nguyễn Thị Giang, Đà Nẵng.
Ngày 17-5-1975, cô Tâm và người chị thứ hai tên Đào và người em gái tên Thuận, đang làm việc ở Sài Gòn, vào bịnh viện nhận xác cha.
3). Bịnh viện Grall giữ xác anh hùng
Cô Tâm cho biết, có lẻ nhận được lịnh của ban giám đốc cho nên nhân viên bịnh viện dành mọi dự dễ dàng và đặc biệt giúp đỡ gia đình. Nhân viên phụ trách mở ngăn lạnh, xác vẫn còn nguyên vẹn với quân phục, cấp bậc, huy hiệu cảnh sát và tên đầy đủ.
Nhân viên cho biết, thi hài của người anh hùng phải bảo quản cho tốt chờ thân nhân. Phải giúp gia đình tẫm liệm và mai táng chu đáo. Họ tắm rửa, thoa thuốc, uốn nắn và chăm sóc thi thể một cách nhẹ nhàng, tử tế đến nổi gia đình phải ngạc nhiên.
Ngày chôn cất, có ban hậu sự của bịnh viện với đồng phục và xe tang, nghiêm trang đưa đến mai táng ở nghĩa trang Giáo Xứ Công Giáo Bà Quẹo, với đầy đủ lễ nghi Công Giáo. Có linh mục đến làm phép xác. Tất cả đều miễn phí. Xác của những tướng Phạm Văn Phú, Trần Văn Hai cũng được gia đình đưa vào bịnh viện Grall, Sài Gòn.
Ít năm sau, gia đình cải táng. Lần nầy thì khăn tang trắng khắp cả một vùng gồm đầy đủ: vợ, các con, các cháu. Xác được hỏa thiêu, tro cốt gởi vào nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế đường Kỳ Đồng, Sài Gòn.
Cái chết của Trung Tá Nguyễn Văn Long được thế giới biết đến nhanh nhất thông qua truyền hình Pháp, trong khi người Sài Gòn ít ai hay biết.
Thế giới xúc động trước cái chết của người anh hùng “vị quốc vong thân”.
3* Danh sách quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tuẫn tiết
Kể từ ngày 29-4-1975 rất nhiều chiến sĩ từ binh sĩ, hạ sĩ, trung sĩ, xã trưởng, chuẩn úy đã bị giết trong những trận tử thủ hoặc tự sát. Họ là những anh hùng vô danh của Việt Nam Cộng Hòa.
Một cựu sinh viên sĩ quan khóa 3/1973 Thủ Đức đã sưu tầm những tài liệu để lập một danh sách tạm thời như sau.
Danh sách quân nhân VNCH tuẫn tiết.
1- Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, cựu tư lệnh Quân Đoàn II 30/4/1975
2- Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV 30/4/1975
3- Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn IV 30/4/1975
4- Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, tướng tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh 30/4/1975
5- Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh 30/4/1975
6- Đại Tá Nguyễn Hữu Thông, trung đoàn trưởng 42 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh- khóa 16 Đà Lat. 31/3/1975 tự sát tại Quy Nhơn
7- Đại Tá Lê Cầu, trung đoàn trưởng 47 Bộ Binh, Sư Đoàn 22 Bộ Binh. Tự sát ngày 10/3/1975
8- Hải Quân Thiếu Tá Lê Anh Tuấn (bào đệ của Trung Tướng Lê Nguyên Khang). 30/4/1975
9- Thiếu Tá Không Quân Nguyễn Gia Tập, đặc trách khu trục tại Bộ Tư Lệnh KQ. Tự sát 30/4/75 tại BTLKQ
10- Trung Tá Nguyễn Văn Long CSQG 30/4/1975 tự sát tại công trường Lam Sơn, Sài Gòn
11- Trung Tá Nguyễn Đình Chi Phụ Tá Chánh sở 3 ANQĐ – Cục An Ninh Quân Đội. Tự sát 30/4/1975 tại Cục An Ninh
12- Trung Tá Phạm Đức Lợi, phụ tá Trưởng Khối Không Ảnh P2/ Bộ TTM 30/4/1975
13- Trung Tá Vũ Đình Duy, trưởng Đoàn 66 Đà Lạt 30/4/1975
14- Trung Tá Nguyễn Văn Hoàn, trưởng Đoàn 67 Phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu. Tự sát ngày 30/4/1975
15- Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương, Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Tự sát ngày 28/4/1975 cùng vợ, 2 con và cháu (bằng súng)
16- Thiếu Tá Đặng Sỹ Vĩnh, trưởng Ban Binh Địa P2 Bộ TTM, sau biệt phái qua Cảnh Sát 30/4/1975 tự sát cùng vợ và 7 con
17- Thiếu Tá Mã Thành Liên (Nghĩa), tiểu đoàn trưởng 411ĐP, TK Bạc Liêu- khoá 10 Đà Lạt. 30/4/1975 tự sát cùng vợ
18- Thiếu Tá Lương Bông, phó ty An Ninh Quân Đội Cần Thơ- Phong Dinh. Tự sát ngày 30/4/1975
19- Thiếu Tá Trần Thế Anh, đơn vị 101. Tự sát ngày 30/4/75
20- Đại Úy Vũ Khắc Cẩn, Ban 3, Tiểu Khu Quảng Ngãi. Tự sát 30/4/1975
21- Đại Úy Tạ Hữu Di, tiểu đoàn phó 211 Pháo Binh Chương Thiện. Tự sát 30/4/1975
22- Trung Úy CSQG Nguyễn Văn Cảnh, trưởng cuộc Vân Đồn, Q.8. Tự sát ngày 30/4/1975
23- Chuẩn Úy Đỗ Công Chính, TĐ 12 Nhảy Dù. Tự sát ngày 30/4/1975 tại cầu Phan Thanh Giản
24- Trung Sĩ Trần MinhTrần Minh, gác Bộ Tổng Tham Mưu. Tự Sát 30/4/1975
25- Thiếu Tá Đỗ Văn Phát, quận trưởng Thạnh Trị Ba Xuyên 1/5/1975
26- Thiếu Tá Nguyễn Văn Phúc, tiểu đoàn trưởng, Tiểu Khu Hậu Nghĩa 29/4/1975
27- Trung Tá Phạm Thế Phiệt 30/4/1975
28- Trung Tá Nguyễn Xuân Trân, Khoá 5 Thủ Đức, Ban Ước Tình Tình Báo P2 /Bộ TTM. Tự sát ngày 1/5/75
29- Trung Tá Phạm Đức Lợi, Phòng 2 Bộ TTM, khóa 5 Thủ Đức, học giả, nhà văn, thơ, soạn kịch…bút danh: Phạm Việt Châu, cựu giảng viên SNQĐ, trưởng phái đoàn VNCH thực hiện HĐ Paris tại Hà Nội. Tự sát tại nhà riêng ngày 5/5/1975
30- Đại Úy Nguyễn Văn Hựu,
(*) xem ý kiến độc giả tại đây trưởng Ban Văn Khố P2/Bộ TTM. Tự sát sáng 30/4/75 tại P2/Bộ TTM
31- Thiếu Úy Nguyễn Phụng, CS đặc biệt, 30/4/1975 tự sát tại Thanh Đa, Sài Gòn
32- Thiếu Úy Nhảy Dù Huỳnh Văn Thái, khoá 5/69 Thủ Đức. 30/4/1975 tự sát tập thể cùng 7 lính Nhảy Dù tại Ngã 6 Chợ Lớn.
33- Trung Úy Đặng Trần Vinh (con của Thiếu Tá Đặng Sĩ Vinh), P2 BTTM. Tự sát cùng vợ con 30/4/1975
34- Trung Úy Nghiêm Viết Thảo, An Ninh Quân Đội, khóa 1/70 Thủ Đức. Tự sát 30/4/1975 tại Kiến Hòa
35- Thiếu Úy Nguyễn Thanh Quan (Quan Đen), phi công PĐ 110 Quan Sát (khóa 72). Tự sát chiều 30/4/1975
36- Hồ Chí Tâm B2, TĐ 490 ĐP ( Mãnh Sư) TK Ba Xuyên (Cà Mau). Tự sát bằng súng M16 trưa 30/4/1975 tại Đầm Cùn, Cà Mau
37- Thượng Sĩ Phạm Xuân Thanh, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 tại Vũng Tàu
38- Thượng Sĩ Bùi Quang Bộ, trường Truyền Tin Vũng Tàu. Tự sát ngày 30/4/1975 cùng gia đình 9 người tại Vũng Tàu
39- …………………………….. và còn rất nhiều rất nhiều tấm gương sáng của những người anh hùng QLVNCH
4* Dương Văn Minh Không Chịu Treo Quốc Kỳ Việt Nam Cộng Hòa
Tiziano Terzani, một trong hơn 100 ký giả đã chứng kiến buổi lễ giao quyền hôm 28 tháng 4 năm 1975 tại Dinh Độc Lập, đã tả lại như sau:
“Sau khi cựu Tổng Thống Trần Văn Hương trở về chỗ ngồi, bục diễn đàn vẫn trống trơn. Dương Văn Minh vẫn ngồi yên không hề nhúc nhích. Một người lính tiến vào dưới hàng đèn phản chiếu và gỡ hai lá cờ đem ra khỏi phòng. Sau đó anh ta trở lại và tháo gỡ Quốc Huy cũ của Việt Nam Cộng Hòa gắn trước bục diễn đàn rồi một người lính khác mang đến gắn huy hiệu mới của Dương Văn Minh, đó là hình hoa mai năm cánh nằm trong dấu hiệu âm dương của người Trung Hoa.
Có nhiều tiếng xì xào trong hội trường. Nền Cộng Hòa đã thay đổi bộ mặt. Dương Văn Minh đứng dậy từ từ tiến về bục diễn đàn, mặt ông ta tỏ ra nghiêm trọng. Ngay lúc đó hai tiếng sét nổ thật lớn ở ngoài trời và tiếp theo là tiếng sấm kéo dài như để đánh dấu ý nghĩa lịch sử của giờ phút đau thương nầy…”. [Tiziano Terzani]
Trong cuốn Cruel Avril, nhà báo Oliver Todd cũng tường thuật buổi lễ này tương tự như vậy “một người lính trẻ tháo gỡ Lá Quốc Kỳ sau bục diễn đàn rồi gỡ Quốc Huy của Việt Nam Cộng Hòa và thay thế bằng huy hiệu mới của Dương Van Minh“. [Oliver Todd]
Trong cuốn những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa, tác giả Nguyễn Khắc Ngữ đã viết rằng “Cùng lúc ấy, một Binh Sĩ vào phòng, bật đèn cho sáng thêm rồi lấy hai lá cờ lớn đi. Sau đó, anh ta trở lại gỡ Huy Hiệu hai con rồng của Tổng Thống cũ gắn trên bục diễn đàn mang đi. Liền sau đó, một người lính khác mang Huy Hiệu mới có bông mai 5 cánh màu trắng vẽ trên nền xanh, ở giữa có vẽ dấu hiệu âm dương”. [Nguyễn Khắc Ngữ]
5* Cuộc đấu tranh hiện nay: thực hiện một nước VN dân chủ tự do
Trước kia QLVNCH chống Cộng Sản để bảo vệ Miền Nam, nhưng Miền Nam hiện nay không còn là MN của VNCH trước 1975 nữa. Lọt vào tay CS suốt 40 năm qua, người MN đã bị Cộng Sản hóa hoàn toàn. Thế hệ 1975 hiện nay ở tuổi 40, 50 là cán bộ đảng viên trong các ngành công an, bộ đội và những tổ chức Cộng Sản. Đời sống và quyền lợi của họ gắn bó chặt chẽ với chế độ họ đang phục vụ.
Không còn Cộng Sản Bắc Việt như trước 75, cho nên có ý kiến cho rằng giải phóng Miền Nam để đuổi bọn CS về Miền Bắc là không có cơ sở nào cả.
Vậy cuộc đấu tranh của người Việt tỵ nạn CS ở hải ngoại là thành lập chế độ dân chủ, tự do và bảo vệ lãnh thổ mà tổ tiên đã khai phá, chiến đấu giữ nước từ Bắc chí Nam.
Quan niệm được hiểu ngầm của đảng CSVN hiện nay là: “Các Vua Hùng có công dựng nước, Đức Trần Hưng Đạo có công giữ nước để bác cháu ta tha hồ bán nước”. Mãi quốc cầu vinh.
CSVN bán nước rõ ràng. Không chối cãi được. Hoàng Sa, Trường Sa, Vịnh Bắc Bộ…còn đó.
6* Mục đích đấu tranh: thực hiện nhân quyền cho đồng bào cả nước
Trước năm 1975, chiến tranh súng đạn trên các mặt trận nhằm mục đích bảo vệ Miền Nam, không để lọt vào tay Cộng Sản. Hiện nay, người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại đã và đang tiến hành cuộc đấu tranh vì nhân quyền cho đồng bào Việt Nam trên cả nước.
Trên mặt trận mới, cần xác định mục đích rõ ràng để từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp rất cần thiết cho cuộc đấu tranh.
6.1. Thực hiện nhân quyền
Nhân quyền là những quyền căn bản của con người được ghi trong bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (The Universal Declaration of the Human Rights) đã được Đại Hội Đồng LHQ thông qua ngày 10-12-1948 tại Palais de Chaillot ở Paris, Pháp.
Những quyền căn bản của con người là: Mọi người tự tự do và bình đẳng không phân biệt sắc tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo…Tự do về các mặt: Tự do ngôn luận, lập hội, cư trú, an toàn cá nhân, tư hữu tài sản, hội họp, lập hội, ứng cử, bầu cử…
6.2. Người Việt hải ngoại không đấu tranh cho mình
Người Việt tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại không đấu tranh cho mình, mà cho đồng bào của mình trong nước. Vì người Việt hải ngoại đang sống ở châu Mỹ, châu Âu và châu Úc đã có các quyền tự do và được đối xử bình đẳng trước pháp luật như người bản xứ.
6.3. Hoan nghênh những người mang tự do nhân quyền cho đồng bào trong nước
Khi đã xác định được mục đích đấu tranh là cho đồng bào của mình trong nước thì bất cứ những ai mang tự do, nhân quyền đến cho đồng bào đều được hoan nghênh.
Nếu có một Gorbachev, một Yeltsin Việt Nam thì cũng được dân tộc VN ghi công và nhớ ơn.
Việc luận công và luận tội sẽ do người Việt và lịch sử Việt Nam phán xét.
Khi xác định được mục đích như vậy thì bất cứ ai có cùng mục đích đó thì được xem là bạn cùng tranh đấu để có sức mạnh tổng hợp cần thiết sớm đạt thành công.
7* Cần phân biệt: TA-BẠN-THÙ
Trong chiến lược đấu tranh, cần thiết phải phân biệt rõ ràng ba thành phần là: Ta-Bạn-Thù để từ đó tạo ra sức mạnh rất cần cho thành công.
7.1. Nói về kẻ thù
Đối tượng phải đấu tranh là tiêu diệt chế độ độc tài do đảng CSVN áp chế.
Đảng CSVN không xứng đáng quản lý đất nước và nhân dân, vì là đảng tham nhũng, hèn với giặc ác với dân, và có truyền thống bán nước, làm tay sai cho ngoại bang.
1). Về tham nhũng thì không cần nói nhiều, ai ai cũng biết từ những cán bộ cao cấp ở trung ương đến đảng viên quèn ở địa phương tất cả đều tham nhũng bằng nhiều hình thức khác nhau. Tham nhũng, “từ hổ đến ruồi” là thuộc tính của các đảng Cộng Sản trên thế giới hiện nay.
2). Truyền thống bán nước của đảng Cộng Sản Việt Nam
Những hành động chứng minh đảng Cộng Sản Việt Nam bán nước
1. Công hàm bán nước của chính phủ Hồ Chí Minh
Ngày 14-9-1958, công hàm của chính phủ Hồ Chí Minh do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký, nội dung chính như sau:
“Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà tôn trọng quyết định ấy, và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước, có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc…”
Ngoài Phạm Văn Đồng ra, còn có những bằng chứng đảng CSVN công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Cộng, cụ thể như sau:
Ung Văn Khiêm tuyên bố:
“Thứ trưởng ngoại giao Ung văn Khiêm nói rằng "theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc".
1). Ông Lê Lộc, quyền Vụ trưởng Á châu Sự vụ thuộc Bộ Ngoại giao VN:… "xét về mặt lịch sử thì các quần đảo này đã hoàn toàn thuộc về Trung quốc từ thời nhà Tống"
2). Hoàng Tùng, Trưởng Ban Tư tưởng TW đảng CSVN đã tuyên bố:
“Thà giao Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, cùng phe xã hội chủ nghĩa anh em còn hơn để tụi Ngụy Sài Gòn quản lý”!
Tháng 5 năm 1976, tờ Sài Gòn Giải Phóng loan tin “Trung Quốc vĩ đại, đối với chúng ta không những là đồng chí mà còn là người thầy tin cẩn, đã cưu mang chúng ta nhiệt tình để chúng ta có ngày hôm nay. Vì vậy, chủ quyền Hoàng Sa thuộc về VN hay thuộc về TQ thì cũng vậy thôi!”. (Hết trích)
Đúng là cả bọn bán nước tập thể.
Như trên cho thấy, không phải chỉ một Phạm Văn Đồng công nhận HS/TS là của Trung Cộng, mà cả Đảng và Nhà nước CSVN đã có cùng một chủ trương bán nước cho Tàu Cộng.
Sự thật rành rành không thể chối cãi được.
2. Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh bán nước : “Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung Ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Mãn Châu… Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên, và cho Việt Nam thời gian 30 năm (1990-2020) để đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”.
Đảng Cộng Sản VN hớn hở vui mừng vì đã bán được nước |
“Lê Khả Phiêu bị Trung Quốc gài mỹ nhân kế, cho lấy cô Trương Mỹ Vân (Cheng Mei Wang) lúc Lê Khả Phiêu thăm TQ năm 1988, sanh được một bé gái. Lê Khả Phiêu không dám đem con về, sợ bị tai tiếng và sợ những đối thủ trong Bộ Chính trị vây đánh. Trung Cộng phát “sinh tử lịnh” bằng cách gởi văn thư vào tháng 1 năm 1999, đòi lấn biển, đe dọa sẽ đưa ra ánh sáng việc thông dâm đó, nếu LKP không hợp tác. Thế là Lê Khả Phiêu phải vâng lịnh, hạ bút ký văn bản hiến biển ngày 30-12-1999” (Hết trích). Có người nêu nhận xét: Sướng con koo mù con mắt.
Theo Tiến sĩ Mai Thanh Truyết thì từ sau năm 1975, đảng CSVN đã cam tâm ký hai hiệp ước cắt đất dâng biển cho Trung Cộng.
“Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc” ngày 30-12-1999. Mất Ải Nam Quan và Thác Bản Giốc, diện tích 178km2
“Hiệp ước phân định lãnh hải” ngày 25-12-2000. Mất khoảng 16,000km2 phần biển trên vịnh Bắc Bộ.
4. Lê Đức Anh bán nước
Thiếu tướng Lê Mã Lương tiết lộ thủ phạm tiếp tay cho Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam chính là ‘đồng chí lãnh đạo cấp cao’, Lê Đức Anh |
Người ra lịnh đó là ủy viên Bộ Chính Trị đầy quyền lực là đại tướng Lê Đức Anh. Sau đó, tại cuộc họp Bộ Chính Trị, Nguyễn Cơ Thạch đập bàn và hỏi: “Ai ra lịnh cho quân đội không được nổ súng?” Vài tháng sau, Nguyễn Cơ Thạch bị gạt bỏ tất cả mọi quyền lực và bị loại ra khỏi Bộ Chính Trị.
7.2. Nói về bạn
Kẻ thù của kẻ thù của ta, có thể là bạn của ta. Bạn không phải là ta. Bạn không chống ta, không hại ta, và trái lại ta cũng không chống bạn, không hại bạn vì đó không phải là mục đích đã được xác định rõ ràng từ đầu.
Như thế, hai thực thể nầy có thể liên minh, liên kết với nhau để có sức mạnh tổng hợp cần thiết cho cuộc đấu tranh. Thêm bạn bớt thù là chủ trương đúng đắn trong đấu tranh.
7.3. Nói về ta
Cuộc đấu tranh cho nhân quyền của đồng bào trong nước được thực hiện trên hai mặt trận: trong nước và hải ngoại
1. Trong nước
1). Chế độ Cộng Sản
Có câu mô tả toàn bộ xã hội như sau: “Đảng chỉ tay, Quốc hội giơ tay, Mặt trận vỗ tay, Chính phủ ra tay, Doanh nghiệp nhà nước ngửa tay, Công an còng tay, Tội phạm bắt tay, Báo chí chùn tay, Trí thức phẩy tay, Quan chức đầy tay, và nhân dân ... trắng tay.
Đảng Cộng Sản là đối tượng đấu tranh không khoan dung, không nhượng bộ để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ chống lại tay sai bán nước.
2). Những nhà đấu tranh dân chủ nhân quyền trong nước
Những nhân vật điển hình như các luật sư: Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài, Lê Quốc Quân, Lê Trần Luật, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, các cô Phạm Thanh Nghiên, Huỳnh Thục Vy, Bùi Thị Minh Hằng, Tạ Phong Tần, thạc sĩ Nguyễn Tiến Trung, nhà báo Trương Minh Đức, blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, và còn nhiều nữa…Linh Mục Nguyễn Văn Lý và những người trong Khối 8406.
Trước kia đã có nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, “Điếu Cày” Nguyễn Văn Hải, LS Cù Huy Hà Vũ, Lư Thị Thu Duyên (hiện định cư ở Hoa Kỳ)
2. Ở hải ngoại
Mặt trận hải ngoài rất phức tạp vì kế hoạch tuyên truyền và đánh phá của VC rất tinh vi. Nhận diện, vạch mặt chỉ tên những cá nhân, những báo, đài, tay sai của VC trong nước. Vạch mặt tẩy chay, cô lập những tên trở cờ. Ở Mỹ có những đại úy, thiếu tá, trung tá và cả đại tá trở cờ nữa.
2.1. Vận động sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế
Vận động những tổ chức như: Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW=Human Rights Watch), Ký giả Không Biên giới (RSF=Reporters Sans Frontières), Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International)
2.2. Xử dụng sức mạnh của lá phiếu
a). Tranh thủ sự ủng hộ của các chính trị gia Hoa Kỳ
Cộng đồng người Việt ở Cali đã tranh thủ được sự ủng hộ của các nhà lập pháp như các dân biểu: Loretta Sanchez, Ed Royce…
Ông Ed Royce đã viết thơ cho Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu trả tự do cho 13 người hoạt động Công Giáo. Ông cùng với 8 nhà lập pháp khác đệ trình dự luật H.R 4254 áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với những quan chức Việt Nam đã “đồng lõa trong những vụ vi phạm nhân quyền nhắm vào người dân Việt Nam.
b). Vạch mặt chỉ tên tay sai Việt Cộng trong cộng đồng
Vạch mặt chỉ tên những phương tiện truyền thông, báo, đài, tuyên truyền và đánh phá theo chủ trương của VC trong nước, nhất là những tên trở cờ đánh phá hoặc tuyên truyền cho VC. Đó là những sĩ quan từ đại úy, thiếu tá, trung tá (“Việt Tấn Xã”) và cả đại tá nữa. Cô lập, tẩy chay.
2.3. Bồi dưỡng thế hệ nối tiếp
Việc nầy cộng đồng người Việt đã làm được. Đó là Thanh Niên Cờ Vàng.
2.4. Ủng hộ những nhà tranh đấu
Đoàn kết, sát cánh, ủng hộ và yểm trợ những nhà trường kỳ tranh đấu trong cộng đồng hải ngoại như anh hùng Lý Tống, bà Đào Nương Hoàng Dược Thảo và những người khác.
8* Kết luận
Ngày 30 tháng 4 là dịp để chúng ta tưởng niệm những anh hùng, tử sĩ đã ngã xuống trên quê hương, dòng máu của họ đã thấm vào lòng đất mẹ, trong cuộc đấu tranh sáng ngời chính nghĩa của Quân Lực VNCH.
Nối tiếp ý chí kiên cường bất khuất đó trong cuộc đấu tranh hiện tại. So với những nhà dân chủ trong nước, chúng ta đang hoàn toàn có tự do, có an toàn, thoải mái đấu tranh…sao ta không tích cực dấn thân?.
Ngày nào đảng Cộng Sản VN còn thì lãnh thổ mà tổ tiên đã bao đời khai phá, phát triển và bảo vệ sẽ bị cái đám tay sai đem dâng lên cho quan thầy Trung Cộng.
Đảng CSVN bán nước còn tang chứng rành rành như đã nêu trên. Dân tộc Việt Nam đứng trước nguy cơ trở thành một sắc tộc thiểu số trong “đại gia đình các dân tộc Trung Quốc” mà đảng CSVN đã thỉnh nguyện vào ngày 4-9-1990 tại Thành Đô, Tứ Xuyên, Trung Quốc.”
Trả lời câu hỏi “Việt Nam còn hay mất?”. Một người trong nước cho biết, đã mất từ lâu rồi, còn gì nữa mà hỏi mất hay còn!”
Trúc Giang
Minnesota ngày 28-3-2015